Bài tập học kỳ Luật Ngân hàng.
Thị trường ngoại hối (bao gồm thị trường tiền tệ và vàng) là thị trường liên ngân hàng nhằm trao đổi một ngoại tệ sang các ngoại tệ khác. Tập hợp các đối tác giao dịch thị trường để đổi lấy việc trao đổi các khoản tiền quy định của đồng tiền tệ một quốc gia khác theo thỏa thuận trên việc xác định tỷ giá trong ngày. Việc trao đổi tỷ giá của một loại tiền tệ này ứng với loại tiền tệ khác được xác định bởi các nhân tố thị trường - cung và cầu. Khối lượng giao dịch của thị trường tiền tệ toàn cầu không ngừng phát triển. Điều này đặt ra yêu cầu quản lý thị trường ngoại hối. Để làm rõ vấn đề này, em lựa chọn đề tài: “Phân tích cơ sở pháp lý để Ngân hàng nhà nước quản lý, điều hành thị trường ngoại hối; thực trạng và đề xuất pháp lý thông qua thực tiễn điều hành thị trường vàng của Ngân hàng Nhà nước từ tháng 6.2013 trở lại đây” cho bài tập lớn học kì của mình. Do vốn kiến thức còn nhiều hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong thầy cô xem xét và góp ý để bài viết được hoàn thiện hơn.
PHẦN NỘI DUNG
I. Tổng quan về ngoại hối và thị trường ngoại hối
1. Tổng quan về ngoại hối và hoạt động ngoại hối
Trong nền kinh tế hiện đại, mỗi quốc gia đều có nhu cầu sử dụng ngoại hối để nhập khẩu hàng hóa hay can thiệp vào thị trường hàng hóa, thị trường tiền tệ, điều hành cán cân thanh toán quốc tế…Do ảnh hưởng lớn của ngoại hối đối với đời sống kinh tế - xã hội nên chính phủ ở mỗi quốc gia đều tìm cách chọn lựa cho mình những chính sách thích hợp trong việc quản lý ngoại hối và điều tiết hoạt động ngoại hối
Pháp luật thực định chọn giải pháp định nghĩa về ngoại hối bằng cách liệt kê các tài sản được coi là ngoại hối.theo cách định nghĩa này, ngoại hối bao gồm:
a) Đồng tiền của quốc gia, lãnh thổ khác, đồng tiền chung Châu Âu và các đồng tiền chung khác dung trong thanh toán quốc tế và khu vực (gọi là ngoại tệ);
b) Phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ, gồm séc, thẻ thanh toán, hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, chứng chỉ tiền gửi và các phương tiện thanh toán khác;
c) Các loại giấy tờ có giá bằng ngoại tệ, gồm trái phiếu Chính Phủ, trái phiếu công ty, kì phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác;
d) Vàng thuộc dự trữ ngoại hối Nhà nước, trên tài khoản ở nước ngoài của người cư trú; vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng trong trường hợp mang vào và mang ra khỏi lãnh thổ Việt Nam;
e) Đồng tiền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử dụng trong thanh toán quốc tế.
Hoạt động ngoại hối là thuật ngữ có thể được hiểu và tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau.
Xét từ góc độ khoa học pháp lí, hoạt động ngoại hối được hiểu là tổng hợp các hành vi pháp lí do các chủ thể khác nhau thực hiện trong qua trình chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tài sản được coi là ngoại hối. các hành vi pháp lý này có thể có tính chất là hành vi dân sự hay hành vi thương mại, tùy thuộc vào việc người thực hiện chúng vì nhu cầu dân sự hay thương mại.
Xét từ góc độ pháp luật thực định, hoạt động ngoại hối được quan niệm là “hoạt động của người cư trú, người không cư trú trong giao dịch vãng lai, giao dịch vốn, sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam, hoạt động ung ứng dịch vụ ngoại hối và các giao dịch khác liên quan đến ngoại hối”.
2. Tổng quan về thị trường ngoại hối
Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra các giao dịch ngoại hối. Loại thị trường này được hình thành từ chính các hoạt động ngoại hối của các chủ thể là người cư trú và người không cư trú.Sự tồn tại của hoạt động ngoại hối trong đời sống kinh tế - xã hội chính là biểu hiện cụ thể của sự tồn tại thị trường ngoại hối. Hoạt động ngoại hối diễn ra như thế nào thì thị trường ngoại hối tồn tại trong trạng thái như vậy. Chỉ có thể nhận biết và đánh giá được hiện trạng của thị trường thông qua những biểu hiện cụ thể của hoạt động ngoại hối.
Ngày nay, thị trường ngoại hối tồn tại một cách phổ biến trong bất kỳ nền kinh tế nào, không phân biệt về thể chế chính trị hay trình độ phát triển kinh tế, tình trạng xã hội. Thị trường ngoại hối được phân biệt với các loại thị trường khác nhờ những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, thị trường ngoại hối (điển hình là thị trường hối đoái) hoạt động liên tục suốt 24/24 giờ trên phạm vi toàn cầu với lưu lượng khổng lồ các ngoại tệ được lưu chuyển qua thị trường. Sở dĩ thị trường hối đoái (với ý nghĩa là hình thái tồn tại cụ thể của thị trường ngoại hối) hoạt động liên tục như vậy là vì có sự khác nhau về múi giờ giữa các quốc gia tùy theo vị trí địa lí. Chẳng hạn, khi thị trường hối đoái ở một quốc gia phương Đông đóng cửa vào thời điểm cuối ngày giao dịch thì cũng là lúc thị trường hối đoái ở một quốc gia phương Tây bắt đầu mở cửa cho ngày giao dịch mới.
Thứ hai, đối tượng chủ yếu được mua bán trên thị trường ngoại hối là các khoản tiền gửi ghi bằng ngoại tệ tại các ngân hàng, ngoại tệ hiện hữu và các loại tài sản khác (kim loại quý, phương tiện thanh toán quốc tế…) có thể chuyển đổi thành ngoại tệ mạnh.
Thứ ba, thị trường ngoại hối ở một quốc gia bao giờ cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và quốc tế.
Những dấu hiệu trên đây của thị trường ngoại hối cho thấy rằng sự lưu thông của ngoại hối trên thị trường tự thân nó đã chứa đựng những ảnh hưởng sâu sắc, lớn lao đối với nền kinh tế - xã hội của quốc gia như hoạt động xuất nhập khẩu, việc điều hành tỉ giá hối đoái và sức mua của đồng tiền nội địa. Vì thế, chính phủ mỗi quốc gia đều phải tiến hành kiểm soát hay can thiệp đối với quá trình lưu thông ngoại hối, với mục tiêu bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát và duy trì sự tăng trưởng kinh tế đất nước.
Ở Việt Nam, Nhà Nước thực hiện việc kiểm soát hoạt động ngoại hối trên thị trường thông qua các cơ quan chức năng là Chính Phủ và Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Theo quy định hiện hành, Ngân hàng nhà nước Việt Nam tham gia vào hoạt động ngoại hối trong nước và quốc tế với hai tư cách:
- Là người tổ chức, quản lí, điều hành thị trường ngoại hối trong nước;
- Là người trực tiếp tham gia giao dịch mua, bán ngoại hối trên thị trường trong nước và quốc tế nhằm thực thi chính sách tiền tệ quốc gia.
II. Các yếu tố tác động đến thị trường ngoại hối
Trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, công tác quản lý ongoại hối ođược đánh giá là lĩnh vực nhạy cảm và có nhiều biến động, nó luôn thu hút quan tâm từ nhiều phía, từ các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong nước cho tới các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, chính phủ nước ngoài có quan hệ kinh tế với Việt Nam, các tổ chức quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc có kế hoạch gia nhập. Việc xây dựng hệ thống chính sách liên quan đến ngoại hối như tỷ giá, vay nợ nước ngoài, kiều hối, đầu tư quốc tế...là rất cần thiết vì nó liên quan trực tiếp tới kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng như của cá nhân, đặc biệt trong giai đoạn mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế.
1. Ảnh hưởng của các hoạt động kinh tế đối ngoại
Quan hệ kinh tế quốc tế là tổng thể các mối quan hệ vật chất và tài chính, các mối quan hệ kinh tế và khoa học công nghệ hình thành giữa các nước với nhau, giữa các nước với các nước với các tổ chức kinh tế quốc tế dựa trên sự phân công lao động quốc tế. Các mối quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng phát triển sẽ dẫn đến hình thành thị trường thế giới thống nhất và nền kinh tế thế giới mang tính chất toàn cầu mà ngoại thương đóng vai trò nổi bật và là cơ sở, tiền đề cho các quan hệ kinh tế quốc tế khác.
Quan hệ quốc tế đòi hỏi phải có một cơ chế tài chính, tín dụng riêng, do vậy lĩnh vực thanh toán quốc tế là một lĩnh vực quan trọng cho hoạt động ngoại thương của tất cả các nước và đòi hỏi phải có một sự quan tâm đặc biệt. Trong việc thanh toán quốc tế ngày nay, một số các đồng tiền của một số nước phát triển có tiềm lực xuất khẩu lớn, có sức mạnh tài chính đáng kể, có uy tín chính trị, được sử dụng làm phương tiện thanh toán quốc tế, những đồng tiền này được chuyển đổi một cách dễ dàng thông qua tỉ giá ngoại hối. Các nước trên thế giới ngày nay chủ yếu sử dụng một khối lượng lớn đồng đô la Mỹ làm đồng tiền dự trữ cho nước mình và trong thanh toán quốc tế. Do vậy mà nạn đô la hóa trở nên phổ biến trên thị trường ngoại hối thế giới.
Hoạt động ngoại thương Việt Nam chỉ thực sự phát triển trong mấy năm gần đây, tuy nhiên lượng hàng hóa xuất khẩu còn rất nhiều hạn chế do hàng hóa của nước ta kém sức cạnh tranh hơn so với một số nước trong khu vực, chính việc này đã dẫn đến vị thế của đồng Việt Nam còn rất yếu kém trên trên lĩnh vực thanh toán quốc tế và khả năng chuyển đổi thấp. Do đó dẫn đến hoạt động ngoại thương bị hạn chế, việc thanh toán quốc tế chủ yếu sử dụng đồng đô la Mỹ làm phương tiện trung gian tính toán và thanh toán tiền hàng nhập khẩu. Thị trường ngoại hối là nơi tập trung giải quyết cung cầu về ngoại tệ và căn cứ vào tỷ giá trên thị trường để các nhà kinh doanh xuất khẩu có thể quyết định việc xuất khẩu hay nhập khẩu sao cho có lợi nhất.
Thị trường ngoại hối đã liên kết quá trình xuất khẩu và nhập khẩu thành chu trình khép kín. Các hoạt động xất khẩu hàng hóa đan xen nhau, tạo điều kiện cho nhau và thúc đẩy hoặc kìm hãm nhau. Các hoạt động xuất nhập khẩu của một nước kết hợp với nhau trong một chu kỳ khép kín có dạng như sau:”Nội tệ - Hàng xuất khẩu – Nội tệ”. Đó là mối quan hệ giữa hàng hóa xuất khẩu và hàng hóa nhập khẩu và mối quan hệ giữa giá nội tệ và giá ngoại tệ, các quan hệ hàng hóa và tiền tệ nói trên không thể tách rời và chỉ có thể thực hiệnđược thông qua trao đổi quốc tế. Cơ chế tác động của thị trường ngoại hối vào xuất nhập khẩu thông qua công cụ tỷ giá diễn ra như sau:
- Khi tỉ giá của ngoại tệ so với đồng Việt Nam tăng thì sẽ kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, xuất khẩu được tăng lên là do giá trị ngoại tệ thu được sau khi bán hàng xuất khẩu đổi ra tiền Việt Nam được nhiều hơn lúc tỉ giá ngoại tệ chưa tăng. Ngược lại, nhập khẩu bị hạn chế vì phải chi phí nhiều đồng Việt Nam hơn để đổi lấy một lượng ngoại tệ mua hàng nhập khẩu để bán với mức giá không đổi hoặc thay đổi ít trong nước.
- Nếu đồng Việt Nam tăng giá tức là tỉ giá của ngoại tệ so với đồng Việt Nam giảm thì sẽ diễn ra tình trạng ngược lại, xuất khẩu giảm do giá trị ngoại tệ thu được sau khi bán hàng xuất khẩu đổi ra tiền Việt Nam được ít hơn. Nhập khẩu tăng do giá trị hàng nhập vào Việt Nam được bán ra với chi phí càng thấp hơn vì giá trị quy đổi của đồng Việt Nam ra đồng đô la Mỹ lớn hơn.
2. Ảnh hưởng của cung cầu ngoại tệ
Với nền kinh tế ngày càng phát triển của nước ta, song song với các hoạt động kinh tế đối ngoại gia tăng thì cung cầu về các lọai ngoại tệ càng lớn và phong phú cho ta thấy rõ vai trò của thị trường ngoại hối có tầm quan trọng như thế nào đến việc điều tiết cung cầu, phục vụ đắc lực cho các hoạt động kinh tế đối ngoại. Do đó sự hình thành và hoạt động điều tiết thị trường ngoại hối là cực kỳ quan trọng và cần thiết. Một khi thị trường đã hình thành và lớn mạnh thì các hoạt động, nghiệp vụ ngoại hối cũng đa dạng, việc quản lý sử dụng có hiệu quả các nguồn ngoại tệ cũng tốt hơn.Việc khai thác sử dụng tiết kiệm, hợp lí thì sẽ mang lại nguồn lợi lớn cho nước nhà, hỗ trọ cho các hoạt động kinh tế đối ngoại và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
3. Ảnh hưởng của chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Chính sách tỉ giá có mối quan hệ chạt chẽ với chính sách huy động và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài mà hiện nay luồn vốn ngoại tệ chảy vào trong nước ngày càng nhiều thông qua nhiều nguồn như: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp nước ngoài, vay nợ Chính Phủ của các tổ chức tín dụng quốc tế và của các ngân hàng nước ngoài, các khoản ngoại tệ và chuyển đổi ngoại tệ từ các hoạt động xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ ngoại tệ ngày càng phát triển, với khối lượng ngoại tệ vào Việt Nam qua đường du lịch và luồng ngoại tệ không chính thức do Việt kiều gửi về. Nếu không có biện pháp quản lý phân bổ và sử dụng có hiệu quả sẽ dẫn đến tình trạng lên giá hoặc giảm giá một cách không lành mạnh, làm tác động xấu đến tâm lý nhà đầu tư khi có ý định bỏ vốn đầu tư vào Việt Nam. Trên thị trường ngoại hối, chính sách tỉ giá là cực kỳ quan trọng, nó tác động đến thu nhập đầu tư và qua đó nó ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư.
4. Ảnh hưởng của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là công cụ quản lí vĩ mô của Nhà nước về tiền tệ do Ngân hàng Nhà nước trực tiếp điều hành nhằm ổn định giá trị đồng tiền và tăng trưởng kinh tế. Chính sách tiền tệ không chỉ điều chỉnh khối tiền tệ tăng giảm theo tín hiệu thị trường, mua ngoại tệ cung ứng cho ngân sách mà còn điều chỉnh khối tiền tệ có sẵn trong lưu thông cho phù hợp với mức tăng tổng sản phẩm kinh tế quốc dân, phù hợp giữa tổng cung và tổng cầu về mối quan hệ giữa tiền và hàng hóa nói chung, không gây thừa hay thiếu tiền so với nhu cầu lưu thông. Chính sách tiền tệ hướng vào việc khống chế nguồn gốc làm tăng giảm tiền cung ứng, làm tăng giảm khối lượng tiền tệ. Qua đó ta thấy rằng, chính sách tiền tệ kết hợp chặt chẽ với chính sách ngoại hối góp phần ổn định tiền tệ, bảo vệ giá cả đối nội và đối ngoại của đồng tiền trên cơ sở kiểm soát được giá cả, cân bằng cán cân thị trường quốc tế, ổn định tỉ giá hối đoái.
5. Ảnh hưởng của chính sách lãi suất
Thị trường ngoại hối gắn chặt với chính sách lãi suất, đây chính là phương pháp mà Ngân hàng Nhà nước thường sử dụng để điều chỉnh tỉ giá hối đoái trên thị trường. Với phương pháp này khi tỉ giá hối đoái đạt tới mức báo động trên thị trường cần phải can thiệp thì Ngân hàng Nhà nước nâng cao lãi suất chiết khấu lên. Tuy nhiên, việc sử dụng chính sách lãi suất chiết khấu cũng có những hạn chế nhất định vì mối quan hệ giữa lãi suất và tỉ giá chỉ là quan hệ tác động qua lại một cách gián tiếp chứ không phải là quan hệ trực tiếp nhân quả, mà các yếu tố để hình thành lãi suất và tỉ giá không giống nhau, vì vậy mà biến động lãi suất không nhất thiết kéo theo biến động của tỉ giá. Lãi suất cao có thể làm cho việc thu hút vốn ngắn hạn từ nước ngoài thuận lợi hơn nhưng nếu điều kiện kinh tế chính trị không ổn định thì khó có thể thực hiện được và vấn đề đặt ra lúc này không phải là thu được bao nhiêu lãi mà là vấn đề an toàn về vốn và tránh được các rủi ro do tỉ giá gây ra.
III. Cơ sở pháp lý để NHNN quản lý, điều hành thị trường ngoại hối
Sự ổn định của tỉ giá có được trước hết là nhờ các giải pháp chính sách tiền tệ, tỉ giá chủ động, nhất quán của cơ quan điều hành. Để giữ được tỉ giá ổn định, NHNN đã sử dụng đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, đặc biệt công cụ lãi suất và tỉ giá được phối hợp chặt chẽ theo hướng nâng cao vị thế của đồng Việt Nam (VND), một điểm trong nhiều năm trước đây còn hạn chế. Nhờ vậy góp phần bình ổn thị trường vàng, giảm tình trạng đô la hóa, làm tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước. Một nguyên nhân khác là do hâm hụt thương mại giảm đáng kể làm giảm nhu cầu ngoại tệ trên thị trường. Trong khi đó, nguồn cung ngoại tệ vẫn tương đối dồi dào với mức giải ngân đầu tư nước ngoài và kiều hối ổn định.
NHNN với vai trò là nhà điều hành đã rất nghiêm chỉnh, nhất quán trong chính sách quản lý ngoại hối và thị trường vàng. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng và chủ yếu góp phần vào sự ổn định tỉ giá trong những năm qua. “Có thể nói, 70% sự ổn định thị trường ngoại hối là do chính sách và sự thực hiện đúng mực chính sách điều hành tỉ giá, phần còn lại là do sự ổn định kinh tế vĩ mô, trong đó có sự kiểm soát lạm phát và giữ sự ổn định giá trị tiền đồng” đây là nhận định của TS Nguyễn Trí Hiếu
1. Chính sách tỷ giá hối đoái
Theo nghị định 70/2014/NĐ-CP ngày 17/7/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối và Pháp lệnh Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối
“Điều 15. Chế độ tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam
1. Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam được hình thành trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện điều tiết tỷ giá hối đoái thông qua việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ và thực hiện phương án can thiệp trên thị trường ngoại tệ.
2. Chế độ tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam là chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác định trên cơ sở rổ tiền tệ của các nước có quan hệ thương mại, vay, trả nợ, đầu tư với Việt Nam phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ”.
Chính sách tỷ giá là tập hợp các biện pháp sử dụng tỷ giá như một công cụ để thực hiện các mục tiêu kinh tế đã đề ra, là cách thức mà chính phủ hoặc NHTW sử dụng để tác động vào nội tệ và can thiệp vào thị trường ngoại hối.
Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tự do là chế độ tỷ giá hối đoái sẽ được vận dụng và xác định một cách tự do theo quy luật thị trường (quy luật cung và cầu trên thị trường ngoại tệ).
Đặc trưng cơ bản của chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tự do:
- Tỷ giá hối đoái hoàn toàn phụ thuộc vào sự biến động của cung và cầu ngoại tệ trên thị trường.
- Ngân hàng trung ương không có bất kì sự can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại tệ. Tuy nhiên, ngân hàng trung ương vẫn có thể can thiệp gián tiếp vào thị trường ngoại tệ bằng cách tham gia mua bán ngoại tệ trên thị trường theo giá cả do thị trường quyết định với tư cách là một nhà kinh doanh giao dịch bình thường.
Ưu điểm của chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi:
- Dưới chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi, cán cân thanh toán sẽ tự cân bằng. Trong trường hợp tài khoản vãng lai thâm hụt, đồng nội tệ giảm giá làm cho xuất khẩu tăng lên và nhập khẩu giảm xuống cho tới khi cán cân thanh toán trở về vị trí cân bằng. Còn trong trường hợp ngược lại, khi tài khoản vãng lai thặng dư, đồng nội địa sẽ lên giá làm cho nhập khẩu tăng và xuất khẩu giảm xuống cho tới khi cán cân thanh toán trở về trạng thái cân bằng.
- Nền kinh tế có thể chống lại những cú sốc giá cả từ bên ngoài. Sự gia tăng của lạm phát nước ngoài sẽ khiến cho tỷ giá hối đoái thay đổi phù hợp với quy luật ngang giá sức mua.
Nhược điểm của chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tự do:
- Tỷ giá hối đoái thả nổi phụ thuộc vào sự biến động của cung và của ngoại tệ. Do đó trên thị trường này có rất nhiều rủi ro
- Tỷ giá hối đoái còn phụ thuộc vào dự đoán của các nhà đầu cơ về mức tỷ giá trong tương lai. Đôi khi những dự tính của họ không phù hợp với viễn cảnh tương lai. Vì vậy, việc đầu cơ một cách ồ ạt có thể làm cho tỷ giá hối đoái biễn động mạnh, gây ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô cũng như sự ổn định của nền kinh tế.
Chính Phủ chỉ can thiệp vào thị trường khi tỷ giá có những biến động mạnh. Trong chế độ tỷ giá hối đoái này, Ngân hàng trung ương sẽ tuyên bố một mức tỷ giá hối đoái chính thức và một biên độ dao động cho phép. Nếu tỷ giá trên thị trường vượt quá biên độ cho phép này, thì Ngân hàng trung ương sẽ dùng những công cụ cần thiết và phù hợp để duy trì sự dao dộng của tỷ giá hối đoái chỉ nằm trong biên độ cho phép. Tuy nhiên trong những điều kiện đặc biệt như khi tình hình kinh tế có những thay đổi lớn thì Nhà nước sẽ xác định và công bố lại mức tỷ giá hối đoái cũng như biên độ dao động cho phép. Để tránh những cú sốc và tổn thất do tỷ giá hối đoái đem lại thì Ngân hàng trung ương cần can thiệp điều tiết tỷ giá hối đoái. Ngân hàng trung ương có thể can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào thị trường ngoại hối. Tức là có thể tham gia vào thị trường ngoại hối, mua bán ngoại tệ hoặc là sử dụng các công cụ cung cấp thông tin cần thiết và chuẩn xác cho thị trường. Sự can thiệp tỷ giá hối đoái của Chính phủ giúp điều chỉnh nền kinh tế. Ví dụ như trong trường hợp cán cân thanh toán do khu vực sản xuất hàng hóa thương mại liên tục có thặng dư quá lớn so với khu vực sản xuất hàng hóa phi thương mại, sẽ khiến cho đồng nội tệ tăng giá. Việc này dẫn đến lao động di chuyển từ khu vực sản xuất thương mại sang khu vực sản xuất hàng hóa phi thương mại, làm cho thất nghiệp tạm thời sẽ tăng lên. Trong tình hình này, Nhà nước có thể can thiệp làm giảm bớt sự lên giá của đồng nội tệ.
2. Chính sách tiền tệ
Một là, thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm đảm bảo một môi trường vận hành CSTT một cách thuận lợi, nâng cao vai trò của các công cụ CSTT gián tiếp. Theo đó, nhiều chính sách đã được thực hiện và phối hợp một cách hiệu quả, tạo được hiệu ứng hỗ trợ mạnh mẽ, cụ thể như sau:
+ Các giải pháp tiết giảm tình trạng đô la hóa và vàng hóa, ổn định thị trường ngoại hối được NHNN thực hiện nhịp nhàng cùng với các giải pháp điều hành chính sách tỷ giá chủ động, mang tính dẫn dắt thị trường; chính sách đấu thầu vàng đảm bảo sự ổn định của thị trường. Chính sách tỷ giá đã được NHNN điều hành linh hoạt, đảm bảo được xu hướng ổn định để góp phần kiểm soát lạm phát, khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, tăng dự trữ ngoại hối;
+ Các giải pháp giải phóng kênh tín dụng được NHNN thực hiện mạnh mẽ thông qua các chương trình tái cấu trúc, giải quyết nợ xấu tồn đọng, hoàn thiện cơ chế quản trị rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, thông qua các chương trình tọa đàm xúc tiến đầu tư theo vùng lãnh thổ, theo ngành nghề. Bên cạnh đó, NHNN cũng tổ chức các buổi làm việc trực tiếp với các doanh nghiệp trên cả nước để nắm bắt các nút thắt và chung tay tháo gỡ những khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh;
+ Các giải pháp nhằm tăng cường vai trò của thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường liên ngân hàng trong việc truyền tải những thay đổi trong điều hành CSTT của NHNN tới các điều kiện tiền tệ (mức cung tiền và lãi suất thị trường) đối với nền kinh tế; cung cấp các chỉ báo về tình hình vốn khả dụng của hệ thống các TCTD;
+ Các biện pháp điều hành lãi suất với những bước đi thích hợp, đảm bảo giảm nhanh chóng và hiệu quả mặt bằng lãi suất, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, từng bước hình thành đường cong lãi suất, hỗ trợ đắc lực cho mục tiêu ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối;
+ Các giải pháp thiết lập kỷ luật thị trường tiền tệ được thực hiện nghiêm túc trên cơ sở điều hành CSTT gắn kết chặt chẽ với công tác thanh tra, giám sát, đảm bảo thực thi nghiêm các chính sách của NHNN, qua đó giúp cơ chế truyền tải CSTT được vận hành tốt hơn.
Hai là, phối hợp các công cụ điều hành một cách linh hoạt, hiệu quả, từng bước tạo lập các điều kiện cần thiết để chuyển sang cơ chế điều hành gián tiếp khi thuận lợi, cụ thể như sau:
+ Phối hợp giữa điều hành lãi suất và tỷ giá hướng tới đảm bảo lợi ích nắm giữ đồng nội tệ, khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu bán lại ngoại tệ cho các TCTD, ổn định kỳ vọng lạm phát và ổn định tỷ giá theo cam kết điều hành hàng năm;
+ Tăng cường vai trò của công cụ thị trường mở, phối hợp nhịp nhàng với các kênh của thị trường tiền tệ để điều tiết lượng tiền cung ứng. Theo đó, Nghiệp vụ OMO được điều hành linh hoạt, thận trọng thông qua hoạt động mua các giấy tờ có giá và bán tín phiếu NHNN với kỳ hạn và lãi suất được điều chỉnh phù hợp với diễn biến của thị trường để hỗ trợ thanh khoản và điều hòa vốn khả dụng cho các TCTD;
+ Phối hợp và điều chỉnh các mức lãi suất chỉ đạo một cách chủ động, truyền dẫn hiệu quả tín hiệu điều hành của NHNN để định hướng thị trường. Từ đầu năm 2012 đến nay, NHNN đã điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và mối quan hệ của lãi suất với cung tiền, lạm phát, tăng trưởng kinh tế và diễn biến của thị trường tiền tệ.
3. Chính sách dự trữ ngoại hối
Dự trữ ngoại hối nhà nước, thường gọi tắt là dự trữ ngoại hối hoặc dự trữ ngoại tệ là lượng ngoại tệ mà ngân hàng trung ương hoặc cơ quan hữu trách tiền tệcủa một quốc gia hay lãnh thổ nắm giữ. Đây là một loại tài sản của Nhà nước được cất giữ dưới dạng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh như: Dollar Mỹ, Euro,Yên Nhật, v.v...) nhằm mục đích thanh toán quốc tế hoặc hỗ trợ giá trị đồng tiền quốc gia.
Theo nghị định số 50/2014/NĐ-CP ngày 24/05/2014 về quản lý dự trữ ngoại hối.
“Điều 13: Phạm vi sử dụng Quỹ dự trữ ngoại hối
Quỹ dự trữ ngoại hối được sử dụng để:
1. Đầu tư trên thị trường quốc tế.
2. Thực hiện các nghiệp vụ ngoại hối phái sinh.
3. Thực hiện các thỏa thuận hoán đổi tiền tệ song phương và đa phương với các ngân hàng trung ương và tổ chức tài chính quốc tế.
4. Điều chuyển và hoán đổi ngoại hối với Quỹ bình ổn tỷ giá và quản lý thị trường vàng.
5. Sử dụng ngoại hối để đáp ứng nhu cầu ngoại hối đột xuất, cấp bách của Nhà nước”.
Nghị định này quy định ngoại tệ được phép đầu tư dự trữ ngoại hối nhà nước là ngoại tệ tự do chuyển đổi và ngoại tệ khác theo cam kết tại các thỏa thuận hoán đổi tiền tệ song phương và đa phương do Ngân hàng Nhà nước ký kết với các ngân hàng trung ương và tổ chức tài chính quốc tế.
Cũng theo Nghị định, phạm vi sử dụng Quỹ bình ổn tỷ giá và quản lý thị trường vàng là: Can thiệp thị trường ngoại tệ và vàng trong nước; đầu tư trên thị trường quốc tế, không bao gồm hoạt động ủy thác đầu tư; thực hiện các nghiệp vụ ngoại hối phái sinh; điều chuyển và hoán đổi ngoại hối với Quỹ dự trữ ngoại hối; bán hoặc tạm ứng ngoại tệ cho các nhu cầu ngoại hối phát sinh từ các nghiệp vụ tác nghiệp, quản lý của Ngân hàng Nhà nước; bán ngoại tệ cho ngân sách nhà nước theo phương án cân đối ngoại tệ đã được phê duyệt.
IV. Thực trạng và đề xuất pháp lý thông qua thực tiễn điều hành thị trường vàng của Ngân hàng Nhà nước từ tháng 6.2013 trở lại đây
1. Thực trạng điều hành thị trường vàng của NHNN từ tháng 6.2013 đến nay
Trong bối cảnh nền kinh tế vẫn còn đang khó khăn, tiềm ẩn nhiều yếu tố biến động, sự ổn định của thị trường - một trong những thị trường có tính chất nhạy cảm nhất hiện nay
Thứ nhất, khuôn khổ pháp lý và công tác quản lý thị trường vàng được triển khai quyết liệt. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã cụ thể hóa và sử dụng công cụ quản lý, can thiệp của Nhà nước vào thị trường vàng một cách hữu hiệu, hợp lý và hiệu quả. Việc phát huy quyền lực tuyệt đối của Nhà nước đối với các thành viên tham gia thị trường như: Tổ chức tín dụng (TCTD), doanh nghiệp (DN), nhà đầu tư nước ngoài... giúp giảm thiểu tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước và người dân. NHNN đã nỗ lực thực hiện lộ trình chấm dứt hoạt động huy động, cho vay vốn bằng vàng, qua đó giảm mạnh tâm lý nắm giữ, đầu cơ vàng, ngăn ngừa rủi ro cho các TCTD thông qua việc thực hiện các quy định tại Thông tư số 22/2010/TT-NHNN ngày 29/10/2010, Thông tư số 11/2011/TT-NHNN ngày 29/4/2011 và Thông tư số 12/2012/TT-NHNN ngày 27/4/2012. NHNN cũng nghiêm cấm các TCTD cho vay để kinh doanh vàng miếng, đồng thời yêu cầu các TCTD không được giữ trạng thái vàng vượt quá 2% so với vốn tự có và không được duy trì trạng thái âm vàng… Bên cạnh đó, việc quyết liệt triển khai các quy định tại Nghị định 24/2012/NĐ-CP ngày 3/4/2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng cũng đã giúp cho thị trường vàng ổn định hơn.
Thứ hai, ổn định cung - cầu trên thị trường, góp phần tăng thu ngân sách qua các phiên đấu thầu. Tính từ cuối tháng 3 đến nay, NHNN đã tổ chức 74 phiên đấu thầu vàng, qua đó cung ứng ra thị trường 1.785.200 lượng vàng, tương đương hơn 68,6 tấn vàng, trên tổng số 1.897.000 lượng chào thầu. Lượng cung vàng này vào thị trường đã hạn chế được tình trạng mất cân đối cung - cầu, qua đó góp phần ổn định thị trường vàng. Lượng tiền thu về từ hoạt động đấu thấu vàng được cân đối với các công cụ chính sách tiền tệ để mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối nhà nước và điều hòa lượng tiền cung ứng theo mục tiêu đề ra. Lợi nhuận thu được từ hoạt động đấu thấu vàng đã hỗ trợ cho ngân sách nhà nước, phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện nguồn thu ngân sách nhà nước năm 2013 gặp nhiều khó khăn. Được biết, nguồn thu từ đấu thầu vàng tính đến ngày 30/8/2013 là hơn 6.000 tỷ đồng. Sau khi trích quỹ, khoản này được chuyển vào ngân sách nhà nước. Rõ ràng, trong bối cảnh ngân sách đang khó khăn, đây là sự bù đắp đáng kể, góp phần cân đối số giảm thu từ chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế cho hàng trăm nghìn DN trong năm 2013.
Thứ ba, đẩy lùi được tình trạng "vàng hóa" nền kinh tế, góp phần ổn định thị trường tiền tệ và kinh tế vĩ mô. Sự mất cân đối về cung cầu vàng miếng trong nước đã được thu hẹp đáng kể, từ đó đã ngăn chặn được ảnh hưởng của biến động giá vàng đến tỷ giá, lạm phát và kinh tế vĩ mô. NHNN đã tách vai trò người huy động và cho vay vàng ra khỏi các NHTM, bởi bản thân các NHTM cũng thua lỗ nặng nề, hiện tượng đầu cơ vàng đã giảm. Việc ổn định được giá vàng trong nước một cách tương đối, làm cho động cơ đầu cơ vào vàng khi giá thế giới biến động không còn hấp dẫn như trước đây và tránh được tác động lên xuống thất thường của giá vàng nước ngoài, từ đó tránh ảnh hưởng đến kinh tế vĩ mô và thị trường ngoại hối. Có thể nói, năm 2013 với những nỗ lực quản lý của mình, NHNN đã có thêm những bước tiến trong cuộc chiến chống “vàng hóa” nền kinh tế...
Thứ tư, thị trường vàng đã được sắp xếp lại một cách cơ bản; trật tự, kỷ cương trên thị trường từng bước được xác lập. Theo đó, thay vì một mạng lưới kinh doanh mua, bán vàng miếng với hơn 12.000 điểm giao dịch trên cả nước, đến nay đã được thu hẹp chỉ còn khoảng 2.500 điểm và 38 TCTD, DN được cấp phép kinh doanh. Mặc dù số lượng các điểm giao dịch giảm đi khá nhiều, song đã không xảy ra tình trạng bất cập hay xáo trộn trên thị trường vàng. Các địa điểm kinh doanh mua, bán vàng miếng được cấp phép đã niêm yết công khai giá mua, giá bán vàng miếng; chấp hành các quy định của pháp luật về chế độ kế toán, lập và sử dụng hóa đơn, chứng từ và thường xuyên được thanh tra, kiểm tra. Bên cạnh đó, qua sự kiểm soát chặt chẽ hoạt động sản xuất vàng miếng của NHNN cũng đã ngăn chặn tình trạng sản xuất vàng miếng từ vàng nguyên liệu nhập lậu, cũng như góp phần chống nhập lậu vàng.
Thứ năm, tạo sự ổn định về tâm lý, không còn tình trạng xếp hàng mua bán. Không còn cảnh thị trường vàng hoảng loạn, người dân đua nhau đi mua vàng, xếp hàng lũ lượt, chấp nhập lấy phiếu hẹn rồi nhận vàng sau... khi mỗi lần xảy ra đoản cung. Vàng cũng không còn trở thành câu chuyện nóng hổi trong các công sở, quán nước, trong bữa cơm gia đình… Có thể nói, việc tăng cung, giải cơn khát cho nhu cầu đã giúp thị trường ổn định, ít nhất về mặt tâm lý, từ đó không có sự hỗn loạn khi giá biến động. Trong thời gian vừa qua, mặc dù giá vàng thế giới có biến động, nhưng trong nước vẫn giữ được sự ổn định, không còn những cơn sốt vàng; giới đầu cơ không có cơ hội tạo sóng, làm giá, thao túng thị trường để kiếm lời như trước đây. Đương nhiên, mục tiêu bình ổn thị trường vàng mà NHNN đưa ra đã từng bước được thực hiện...
Thực tế, công tác điều hành, quản lý thị trường vàng của NHNN thời gian qua đã đạt được những thành công đáng ghi nhân:
NHNN đã áp dụng các giải pháp đồng bộ để triển khai khuôn khổ pháp lý mới về quản lý thị trường vàng, mà nòng cốt là Nghị định 24/2012/NĐ-CP của Chính phủ, đồng thời kiên quyết triển khai các biện pháp để chấm dứt hoạt động huy động, cho vay vốn bằng vàng tại các tổ chức tín dụng. Kết quả là thị trường vàng miếng trong nước đã tương đối ổn định trước những biến động bất thường của giá vàng thế giới; không còn hiện tượng “làm giá”, tạo sóng, thao túng thị trường để kiếm lời của giới đầu cơ; không còn những cơn “sốt vàng”, không còn hiện tượng người dân đổ xô đi mua, bán vàng như trước đây, nhu cầu nắm giữ vàng miếng trong dân đã giảm đáng kể so với giai đoạn trước; đến nay toàn bộ quan hệ huy động, cho vay vốn bằng vàng đã được chuyển sang quan hệ mua, bán vàng, tình trạng “vàng hóa” trong hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) đã được xóa bỏ. Đây là bước tiến quan trọng, đã góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng “vàng hóa” trong nền kinh tế.
Như vậy có thể khẳng định, với các giải pháp đồng bộ mà NHNN đã triển khai trong thời gian qua, đến nay tình trạng “vàng hóa” trong nền kinh tế đã được ngăn chặn đáng kể. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế vĩ mô trong nước hiện nay chưa thực sự ổn định và bền vững, để tiến tới mục tiêu xóa bỏ tình trạng “vàng hóa” trong nền kinh tế, trong thời gian tới NHNN sẽ phối hợp với các bộ, ngành chức năng tiếp tục triển khai các giải pháp đồng bộ, linh hoạt và hiệu quả để ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, phát triển kinh tế bền vững và nâng cao lòng tin của người dân vào giá trị của đồng Việt Nam.
Nếu như Nghị định 24 đã thiết lập hành lang pháp lý chặt chẽ cho thị trường vàng, qua đó từng bước đẩy lùi, tiến tới xóa bỏ tình trạng vàng hóa, đầu cơ, thao túng thị trường thì đấu thầu vàng miếng được giới chuyên gia đánh giá là một trong những “vị thuốc” đặc trị đối với thị trường vàng. Đấu thầu vàng miếng đã ngăn ngừa được hiện tượng đầu cơ, làm giá do quy trình đấu thầu bán vàng miếng được thực hiện thông suốt, an toàn, công khai, minh bạch. Giá trúng thầu được xác định trên cơ sở cạnh tranh, luôn bám sát giá thị trường và định hướng thị trường góp phần ngăn ngừa một cách hiệu quả hiện tượng đầu cơ, làm giá và khẳng định vai trò điều tiết của Nhà nước. Việc NHNN lựa chọn hình thức đấu thầu bán vàng miếng là biện pháp phù hợp nhất để đáp ứng nhu cầu mua vàng miếng của người dân, đồng thời đảm bảo người gửi vàng tại tổ chức tín dụng được chi trả vàng miếng đúng hạn.
Như đã đề cập ở trên, thông qua các phiên đấu thầu vàng miếng, NHNN đã cung cấp một lượng vàng vừa đủ để các tổ chức tín dụng tất toán trạng thái vàng và cũng đủ để đáp ứng nhu cầu vàng của nền kinh tế. Thực tế này cho thấy, NHNN đã từng bước tạo dựng được sự ổn định trên thị trường vàng, qua đó tạo sự cân đối cung - cầu vàng trong nền kinh tế. Và đặc biệt, thị trường vàng miếng đã ổn định, không còn các cơn “sốt vàng” gây bất ổn xã hội, giá vàng trong nước có xu hướng giảm ngay cả khi giá vàng thế giới có biến động lớn và phức tạp, làm mất đi động lực đầu cơ, làm giá, tạo sóng kiếm lời của giới đầu cơ và do vậy góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng “vàng hóa” trong nền kinh tế.
Ngoài ra, cũng cần phải nhấn mạnh rằng, NHNN can thiệp thị trường vàng không vì mục tiêu lợi nhuận mà chỉ nhằm điều tiết và quản lý Nhà nước đối với thị trường. Trước đây, toàn bộ chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới đều thuộc về giới đầu cơ và kinh doanh vàng, nay thuộc về ngân sách Nhà nước để phục vụ quốc kế dân sinh. Nhà nước tôn trọng và đảm bảo quyền sở hữu, tích trữ, mua bán vàng miếng của tổ chức và cá nhân, nhưng không khuyến khích kinh doanh vàng miếng vì không tạo ra giá trị gia tăng của cải vật chất cho xã hội, mà ngược lại còn gây lãng phí một nguồn vốn to lớn để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Để tạo lập cơ sở pháp lý cho hoạt động can thiệp bình ổn thị trường vàng theo Nghị định 24 của Chính phủ, từ ngày 28/3/2013, NHNN đã tiến hành tổ chức đấu thầu bán vàng ra thị trường giúp các ngân hàng có đủ vàng tất toán trạng thái và đáp ứng nhu cầu của người dân. Tính đến ngày 20/12/2013, sau 75 phiên đấu thầu, 1.799.900 lượng, tương đương 69,2 tấn vàng, trúng thầu trên tổng số 1.912.000 lượng chào. Trong số trên, có khoảng 30 tấn được các ngân hàng sử dụng để tất toán số dư huy động vàng. Số còn lại, được các đơn vị trúng thầu bán ra thị trường. Lúc đầu, số lượng vàng chào bán là 26.000 lượng với 3 phiên/tuần, sau đó có phiên lên tới 40.000 lượng. Tuy nhiên, sau thời hạn tất toán trạng thái vàng của ngân hàng (30/6), NHNN hạn chế cung vàng ra thị trường bằng cách giảm lượng dần lượng chào thầu và tần suất đấu thầu. Phiên có số vàng thừa kỷ lục là phiên thứ 67, thừa tới 3.700 lượng. Với việc NHNN cung mạnh vàng, thị trường đã có một năm ổn định.
Theo phòng Nghiên cứu Thị trường Tài chính - Viện chiến lược và chính sách tài chính nhận định, giá vàng có xu hướng tăng sau 6 tháng đầu năm 2014. Cụ thể, thị trường vàng 6 tháng đầu năm 2014 diễn biến theo xu hướng tăng giá. Tính đến ngày 23/6/2014 giá vàng mua vào và bán ra lần lượt là 36,65 triệu đồng/lượng (tăng 5,62% so với cuối năm 2013) và 36,8 triệu đồng/lượng(tăng 5,81% so với cuối năm 2013).
Mặc dù, mức giá bình quân mua vào và bán ra của 6 tháng đầu năm 2014 là 35,84 triệu đồng/lượng và 35,92 triệu đồng/lượng lần lượt tăng 3,28% và 3,29% so với cuối năm 2013, vẫn còn thấp hơn so với cùng kỳ năm trước lần lượt là 16,42% và 16,65%. Nguyên nhân chính dẫn đến việc giá vàng tăng là do chịu áp lực của giá vàng thế giới và tâm lý nhà đầu tư đối với căng thẳng địa chính trị trong thời gian gần đây.
2. Một số ý kiến pháp lý hoàn thiện chính sách quản lý thị trường vàng ở Việt Nam
Thứ nhất, nên coi thị trường vàng là thị trường mở như các loại thị trường hàng hóa, tiền tệ, chứng khoán, bất động sản… cần được bảo đảm lưu thông một cách thông thoáng, không bị hạn chế, cản trở nào của chính sách, giải pháp vĩ mô.
Thứ hai, hiện nay NHNN thực hiện giải pháp đấu thầu vàng là một hình thức đáp ứng nguồn cung, nhưng mặt khác tác động lên cầu khi mức giá đưa ra chào bán luôn cao hơn giá thế giới khoảng 10%. Thực tế, thói quen lẫn văn hóa của người Việt vẫn xem vàng vừa là tài sản bảo toàn giá trị, vừa là kênh đầu tư lẫn phòng ngừa rủi ro đã hình thành trong suốt một thời gian dài, khiến hiện nay có một lượng lớn vàng đang được người dân nắm giữ.
Hơn nữa, chúng ta cũng không thể không thừa nhận tính hấp dẫn của vàng dưới góc độ của một kênh đầu tư khi biến động giá vàng thế giới ngày càng tăng, hoặc kinh tế Việt Nam có khả năng trải qua lạm phát cao trong thời gian tới. Nhất là không thể xóa bỏ thói quen tích trữ vàng đã bao đời nay của người dân Việt Nam. Trong trường hợp này, Chính phủ cần phải tạo ra một kênh đầu tư vàng để công chúng có thể tiếp cận. Thành lập một định chế tài chính chuyên biệt điều hành thị trường vàng có thể giải quyết vấn đề này.
Thứ ba, giá vàng trong nước phải liên thông với giá vàng thế giới, giá trị USD một cách hợp lý. Mọi trường hợp giá vàng trong nước cao hơn, hoặc thấp hơn giá vàng thế giới đều có khả năng gây nên biến động giá vàng trong nước, tỷ giá USD/VNĐ và có thể bị giới đầu cơ lợi dụng làm cho giá vàng biến động phức tạp hơn.
Thứ tư, bằng một chính sách kinh tế vĩ mô tạo niềm tin cho nhà đầu tư và thị trường về một triển vọng trong dài hạn, ổn định lạm phát và giá trị tiền đồng. NHNN phải liên tục đưa những tín hiệu và thông báo rằng, sẽ liên tục bán vàng trong bất kỳ hoàn cảnh nào để làm giảm giá vàng, hoặc làm nản lòng giới đầu cơ vàng. Trong chính sách, giải pháp can thiệp thị trường vàng cần hết sức tránh và cân nhắc thận trọng những quy định hạn chế, có thể gây cản trở, ách tắc đối với mua bán, lưu thông trong nước và với thị trường vàng thế giới.
C. PHẦN KẾT LUẬN
Thị trường ngoại hối là cơ chế hữu hiệu đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi ngoại tệ nhằm phục vụ cho chu chuyển, thanh toán trong lĩnh vực đầu tư, thương mại và phi thương mại quốc tế. Thị trường ngoại hối là công cụ để NHNN có thể thực hiện chính sách tiền tệ nhằm điều khiển nền kinh tế theo mục tiêu của chính phủ. Chính vì thế, việc duy trì ổn định và phát triển TTNH là vô cùng quan trọng nhằm đưa nền kinh tế nước ta đi lên
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân hàng Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2012.
2. Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010.
3. Pháp lệnh số 06/2013/UBTVQH13 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 18/03/2013 của UBTVQH: Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ngoại hối.
4. Nghị định số 50/2014/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 20/05/2014 Về quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước
5. Nghị định số 70/2014/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 17/07/2014, Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét