Bài tập học kỳ Luật đầu tư.
Lý do chọn đề tài
Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO, các quan hệ kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ. Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong phát triển kinh tế như: tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu,… Tuy nhiên Việt Nam cũng còn đang phải đối phó với những thách thức to lớn trong quá trình phát triển. Cũng như các nước đang phát triển khác, Việt Nam thiếu vốn, thị trường, công nghệ và những kinh nghiệm quản lý để xây dựng và phát triển kinh tế.
Để giải quyết những vấn đề đó, không thể thực hiện chính sách “đóng cửa” mà phải đề ra chính sách kinh tế hợp lý, kết hợp tối ưu các yếu tố bên trong và bên ngoài, đưa nền kinh tế hòa nhập vào nền kinh tế thế giới. Trong đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một nhân tố hết sức quan trọng, là xu hướng tất yếu khách quan đối với tất cả các nước trong đó có Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và đi kèm với nó là sự chuyển giao về vốn, công nghệ, thị trường và các kinh nghiệm quản lý, đồng thời góp phần tạo việc làm cho người lao động. Đây là nguồn lực quý báu để xây dựng và phát triển kinh tế Việt Nam.
Vì những thực trạng và nhu cầu nêu trên, chúng em quyết định chọn đề tài “Giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam”.
Mục tiêu của đề tài
- Hệ thống hóa một số vấn về mang tính chất lý luận và thực tiễn về đầu tư trực tiêp nước ngoài.
- Đánh giá toàn diện thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài, chỉ ra những nguyên nhân hạn chế khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
- Đề xuất một số giái pháp phù hợp để nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: đầu tư trực tiếp nước ngoài bao hàm nhiều phương diện, bài tiểu luận này không nghiên cứu FDI nói chung với tất cả các mặt của nó mà chỉ chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản liên quan đến các biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu giới hạn trong môi trường pháp lý Việt Nam trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Phương pháp nghiên cứu
Trong bài tiểu luận này chúng em sử dụng các phương pháp:
Phân tích tài liệu
So sánh đối chiếu
Liệt kê
Giải thích
Các phương pháp xã hội học pháp luật
Tổng hợp
Bố cục bài tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, nội dung của bài tiểu luận gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương 2: Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
Chương 3: Giải pháp để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
Tuy nhiên, do khả năng nhận thức, kiến thức thực tế và sự hiểu biết còn hạn chế nên trong quá trình làm bài thì không thể tránh khỏi việc mắc sai lầm và thiếu xót, mong thầy góp ý và hoàn thiện cho đề tài của nhóm chúng em.
Nhóm xin chân thành cảm ơn thầy!
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI)
Các quan điểm và định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước ngoài được đưa ra tùy góc độ nhìn nhận nên rất đa dạng:
1.1.1. Khái niệm theo nguồn quốc tế
Khái niệm của Quỹ tiền tệ thế giới (IMF): FDI là một hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm đạt được những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế của chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý thực sự doanh nghiệp.
Khái niệm của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD): đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh nghiệp đặc biệt là những khoản đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý doanh nghiệp nói trên bằng cách:
- Thiết lập hoặc mở rộng một doanh nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn quyền quản lý của chủ đầu tư.
- Mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có
- Tham gia vào một doanh nghiệp mới
- Cấp tín dụng dài hạn
- Quyền kiểm soát: nắm từ 10% cổ phiếu thường hoặc quyền biểu quyết trở lên
Theo định nghĩa của chính phủ Mỹ, ngoài những nội dung tương tự khái niệm FDI của IMF và OECD, FDI còn gắn liền với “quyền sở hữu hoặc kiểm soát 10% hoặc hơn thế các chứng khoán kèm quyền biểu quyết của một doanh nghiệp, hoặc lợi ích tương đương trong các đơn vị kinh doanh không có tư cách pháp nhân”
1.1.2. Khái niệm theo nguồn Việt Nam
Luật đầu tư 2005 mà quốc hội khóa XI Việt Nam đã thông qua có các khái niệm về “đầu tư”, “đầu tư trực tiếp”, “đầu tư trực tiếp nước ngoài”, “đầu tư ra nước ngoài” nhưng không có khái niệm “đầu tư trực tiếp nước ngoài”. Tuy nhiên có thể gộp các khái niệm trên lại và có thể hiểu: FDI là hình thức do nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lí hoạt động đầu tư ở Việt Nam theo quy định của Luật đầu tư và các quy định pháp luật có liên quan.
1.1.3. Kết luận
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự dịch chuyển vốn quốc tế dưới hình thức vốn sản xuất thông qua việc nhà đầu tư ở một nước đưa vốn vào một nước khác để đầu tư, đồng thời trực tiếp tham gia quản lí, điều hành, tổ chức sản xuất, tận dụng ưu thế về vốn, trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản lý… nhằm mục đích thu lợi nhuận.
1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
Khi tiến hành đầu tư vào Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài sẽ tiến hành lựa chọn một hình thức đầu tư cho phù hợp với năng lực và tài chính vốn có của mình. Hiện nay, theo luật đầu tư 2005 thì nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam sẽ đầu tư dưới các hình thức đầu tư sau :
- Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài
- Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài
- Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BTO, hợp đồng BT
- Đầu tư phát triển kinh doanh
- Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư
- Các hình thức đầu tư trực tiếp khác
Như vậy các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam đã có nhiều hình thức để lựa chọn, thay vì trước đây chỉ có 3 hình thức: hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh và thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn nước ngoài. Luật đầu tư đã có sự mở rộng, ưu ái hơn, quan tâm hơn đến các nhà đầu tư nước ngoài. Đây có thể xem là một điểm tiến bộ trong quá trình phát triển kinh tế cũng như trong quá trình cải tiến những quy định của pháp luật cho phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế, quốc tế của Việt Nam.
1.3. Bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDI ra đời muộn hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác vài ba thập kỉ nhưng FDI nhanh chóng xác lập vị thế của mình trong hoạt động kinh tế quốc tế, FDI trở thành một xu thế tất yếu của lịch sử, một nhu cầu không thể thiếu của các quốc gia trên thế giới kể cả các nước đang phát triển, những nước công nghiệp mới hay những nước OPEC và những nước phát triển cao.
Bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài là:
- Có sự thiết lập quyền sở hữu về tư bản của công ty một nước ở một nước khác
- Có sự kết hợp vê quyền sở hữu với quyền quản lý các nguồn vốn đã được đầu tư
- Có kèm theo quyền chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý
- Có liên quan đến việc mở rộng thị trường của các công ty đa quốc gia
- Gắn liền với sự phát triển của thị trường tài chính quốc tế và thương mại quốc tế
1.4. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Bổ sung cho nguồn vốn trong nước:
Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập. Khi một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều vốn hơn nữa. Nếu vốn trong nước không đủ, nền kinh tế này sẽ muốn có cả vốn từ nước ngoài, trong đó có vốn FDI. Ưu điểm vượt trội của nguồn vốn này là đi kèm theo chuyển giao công nghệ, thúc đẩy xuất khẩu, tiếp nhận các kiến thức quản lý hiện đại. Mặc khác, so với các nguồn vốn nước ngoài khác, vốn FDI ít bị nhạy cả trước những biến động của thị trường tài chính toàn cầu.
- Nguồn thu ngân sách lớn:
Đối với nhiều nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương, thuế do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp là đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước. Hằng năm, số tiền các doanh nghiệp FDI nộp vào ngân sách rất lớn, có năm đạt hơn 3,6 tỷ USD.
- Tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý:
Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể huy động được phần nào bằng "chính sách thắt lưng buộc bụng". Tuy nhiên, công nghệ và bí quyết quản lý thì không thể có được bằng chính sách đó. Thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia sẽ giúp một nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý kinh doanh mà các công ty này đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng những khoản chi phí lớn. Tuy nhiên, việc phổ biến các công nghệ và bí quyết quản lý đó ra cả nước thu hút đầu tư còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực tiếp thu của đất nước.
- Tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu, đẩy mạnh xuất khẩu:
Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ doanh nghiệp có vốn đầu tư của công ty đa quốc gia, mà ngay cả các doanh nghiệp khác trong nước có quan hệ làm ăn với doanh nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu. Nó cũng là một phương thức đưa các sản phẩm văn hó, du lịch trong nước xâm nhập thị trường nước ngoài một cách thuận lợi nhất.
Thông qua tiếp nhận đầu tư, các nước sở tại có điều kiện thuận lợi để tiếp cận và thâm nhập thị trường quốc tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, thích nghi nhanh hơn với các thay đổi trên thị trường thế giới… FDI có vai trò làm cầu nối và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, một nhân tố làm đẩy mạnh quá trình toàn cầu hóa thế giới.
- Tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công:
Vì một trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt được chi phí sản xuất thấp, nên doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao động địa phương. Thu nhập của một bộ phận dân cư địa phương được cải thiện sẽ đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế của địa phương. Trong quá trình thuê mướn đó, đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp, mà trong nhiều trường hợp là mới mẻ và tiến bộ ở các nước đang phát triển thu hút FDI, sẽ được doanh nghiệp cung cấp. Điều này tạo ra một đội ngũ lao động có kỹ năng cho nước thu hút FDI. Không chỉ có lao động thông thường, mà cả các nhà chuyên môn địa phương cũng có cơ hội làm việc và được bồi dưỡng nghiệp vụ ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Đối với các quốc gia đi đầu tư
FDI giúp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thông qua việc sử dụng những lợi thế sản xuất của nơi tiếp nhận đầu tư; tạo thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá cả ổn định; cho phép chủ đầu tư bành trướng sức mạnh về kinh tế, tăng cường ảnh hưởng của mình trên thị trường quốc tế; đồng thời phân tán rủi ro do tình hình kinh tế chính trị bất ổn trong nước.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM
2.1. Thực trạng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam hiện nay
2.1.1. Tình hình cấp giấy chứng nhận đầu tư
Theo các báo cáo nhận được, tính đến ngày 20/2/2014 cả nước có 122 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký là 830,87 triệu USD, bằng 80,7% so với cùng kỳ năm 2013. Đến 20 tháng 02/2014, có 41 lượt dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 708,79 triệu USD, bằng 23% so với cùng kỳ năm 2013.
Tính chung trong 2 tháng đầu năm 2014, tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 1,539 tỷ USD, bằng 37,5% so với cùng kỳ năm 2013.
Theo lĩnh vực đầu tư:
Trong 2 tháng đầu năm 2014 nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 14 ngành lĩnh vực, trong đó lĩnh vực Công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài với 62 dự án đầu tư đăng ký mới, tổng số vốn cấp mới và tăng thêm là 1,178 tỷ USD, chiếm 76,5% tổng vốn đầu tư đăng ký trong 2 tháng. Lĩnh vực Kinh doanh bất động sản đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 278,33 triệu USD, chiếm 18,1% tổng vốn đầu tư. Đứng thứ 3 là lĩnh vực Vận tải kho bãi với 9 dự án đầu tư mới, tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 21,75 triệu USD.
Theo đối tác đầu tư:
Tháng 2 tháng đầu năm 2014 có 29 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Hàn Quốc dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 468,98 triệu USD, chiếm 30,5% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam; Singapore đứng vị trí thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 264,55 triệu USD, chiếm 17,2% tổng vốn đầu tư; Nhật Bản đứng vị trí thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 263,36 triệu USD, chiếm 17,1% tổng vốn đầu tư.
Theo địa bàn đầu tư:
Trong 2 tháng đầu năm 2014 nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 19 tỉnh thành phố, trong đó Bình Dương là địa phương thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 690,51 triệu USD, chiếm 44,8% tổng vốn đầu tư đăng ký. Hải Phòng đứng thứ 2 với tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 195,85 triệu USD, chiếm 12,7%. TP. Hồ Chí Minh đứng thứ 3 với tổng số vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm 147,95 triệu USD.
Một số dự án lớn được cấp phép trong 2 tháng đầu năm 2014 là:
- Dự án Công ty TNHH Wonderful Sài Gòn Electrics điều chỉnh tăng vốn đầu tư 210 triệu USD. Đây là dự án do Nhật Bản đầu tư ở Bình Dương với mục tiêu sản xuất, lắp ráp các loại linh kiện cho máy bán dẫn.
- Dự án Công ty TNHH Vsip Hải Phòng điều chỉnh tăng vốn đầu tư 122,303 triệu USD. Đây là dự án do Singapore đầu tư với mục tiêu cung cấp dịch vụ quản lý khu đô thị, công nghiệp và dịch vụ tại Hải Phòng.
- Dự án Công ty TNHH SI Flex Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký 106 triệu USD với mục tiêu sản xuất bảng mạch in mềm tại Bắc Giang.
- Dự án Công ty TNHH Villa Arcadia với tổng vốn đầu tư đăng ký 102 triệu USD do nhà đầu tư Singapore đầu tư tại TP. Hồ Chí Minh với mục tiêu đầu tư xây dựng khu nhà ở để bán và cho thuê.
2.1.2 Tình hình hoạt động
Vốn thực hiện:
Trong 2 tháng đầu năm 2014, ước tính các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được 1,12 tỷ USD, tăng 6,7% với cùng kỳ năm 2013.
Tình hình xuất, nhập khẩu:
Xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) trong 2 tháng đầu năm 2014 dự kiến đạt 13,855 tỷ USD, tăng 11,8% so với cùng kỳ năm 2013 và chiếm 65,79% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhập khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài 2 tháng đầu năm 2014 đạt 11,757 tỷ USD, tăng 17,1% so với cùng kỳ năm 2013 và chiếm 56,48% tổng kim ngạch nhập khẩu. Tính chung trong 2 tháng đầu năm 2014, khu vực đầu tư nước ngoài xuất siêu 2,098 tỷ USD.
2.2. Một số bất cập trong pháp luật về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
2.2.1. Ưu đãi đầu tư và chính sách hỗ trợ đầu tư
Thực tế cho thấy, việc thực hiện các chính sách ưu đãi đầu tư đã bộc lộ nhiều bất cập. Chẳng hạn như chính sách ưu đãi theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đã bỏ ưu đãi cho các dự án sản xuất thuộc lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp. Trong khi đó, mức ưu đãi theo quy định lại chưa đủ sức hấp dẫn với ngành nghề, lĩnh vực khuyến khích đầu tư (thí dụ như công nghiệp hỗ trợ), lại thiếu linh hoạt và sự phân loại ưu tiên đối với các dự án FDI như dự án có tính lan tỏa cao, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của địa phương, vùng...
Không chỉ vậy, Luật Thuế TNDN đã bãi bỏ quy định ưu đãi thuế TNDN đối với dự án đầu tư mở rộng quy định tại Luật Ðầu tư. Ưu đãi thuế TNDN chỉ áp dụng đối với những doanh nghiệp mới thành lập từ dự án đầu tư. Quy định này đã khiến nhiều dự án đầu tư mở rộng như Samsung, Kumho, Rober Bosh, Formosa... không được hưởng ưu đãi thuế TNDN như dự án đầu tư mới trong khi dự án đầu tư mở rộng còn có quy mô vốn lớn hơn nhiều so với vốn đăng ký ban đầu. Trên thực tế, một số nhà đầu tư đã tìm cách chuyển hướng đầu tư sang các nước khác để có thể được hưởng ưu đãi đầu tư hấp dẫn. Theo Bộ Kế hoạch và Ðầu tư, quy định này không phù hợp với chủ trương khuyến khích nhà đầu tư dùng lợi nhuận để tái đầu tư, đổi mới công nghệ mở rộng sản xuất, đặc biệt trong bối cảnh việc thu hút đầu tư mới gặp nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó, quy định trong Luật Thuế TNDN chỉ áp dụng ưu đãi thuế TNDN đối với DN mới thành lập từ dự án đầu tư cũng chưa thật sự phù hợp với thực tế DN có thể đầu tư đa lĩnh vực, ngành nghề theo Luật Ðầu tư và Luật Doanh nghiệp.
Về hỗ trợ đầu tư, Luật đầu tư quy định về hỗ trợ đầu tư còn mang tính chung chung, chưa cụ thể. Nhà đầu tư nước ngoài chưa thấy được hiệu quả từ việc Nhà nước ta hỗ trợ đầu tư. Nghị định 108/2006/NĐ- CP hướng dẫn Luật đầu tư cũng chỉ quy định rằng Chính phủ khuyến khích, Chính phủ hỗ trợ, Chính phủ có chương trình hỗ trợ kết cấu hạ tầng, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động đầu tư mà không nói rõ mức độ hỗ trợ đầu tư là bao nhiêuvà áp dụng chung hay chỉ cho một số dự án nhất định.
Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế và khu vực trong thu hút FDI ngày càng trở nên gay gắt thì việc bổ sung, sửa đổi chính sách ưu đãi đầu tư cũng như là hỗ trợ đầu tư càng trở nên cấp bách.
2.2.2 Thủ tục đối với các doanh nghiệp FDI
Thủ tục đăng ký kinh doanh và đăng ký đầu tư đối với doanh nghiệp FDI có nhiều bất cập, vướng mắc trong triển khai thực hiện.
Theo quy định hiện nay, Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư có nội dung giao thoa về thủ tục đăng ký kinh doanh và đăng ký đầu tư, đó là giấy chứng nhận đầu tư (CNĐT) và giấy đăng ký kinh doanh (ĐKKD).
Điều này này làm phát sinh nhiều bất cập, khó khăn trong thực tiễn, như làm tăng thêm số lượng cơ quan có chức năng ĐKKD ở các cấp; khó theo dõi, quản lý hoạt động ĐKKD; không tách biệt được chức năng quản lý ĐKKD và dự án đầu tư; khó khăn cho nhà đầu tư khi muốn mở thêm chi nhánh…
Ví dụ về một nhà đầu tư nước ngoài muốn vào Việt Nam để thực hiện một dự án đầu tư về may mặc. Nhà đầu tư nước ngoài này muốn mua lại máy móc, nhà xưởng và xin thuê đất để thực hiện dự án, nhưng vì chưa thành lập doanh nghiệp, chưa có tư cách pháp nhân, nên không làm được việc đó. Do vậy, họ phải thực hiện thủ tục đầu tư để được cấp giấy CNĐT và đồng thời là giấy ĐKKD. Tuy nhiên, để thực hiện được thủ tục đầu tư cho dự án nói trên, nhà đầu tư đó phải hoàn tất việc xin thuê đất, mua lại máy móc, nhà xưởng để hoàn tất bộ hồ sơ đăng ký đầu tư. Lúc này, sự lúng túng của nhà đầu tư thể hiện ở chỗ, họ không biết thủ tục nào phải thực hiện trước, thủ tục nào thực hiện sau, vì về nguyên tắc, muốn thuê đất, nhà đầu tư nước ngoài phải có dự án đầu tư, được cấp giấy CNĐT…
Quy định pháp luật chồng chéo, không rõ ràng.
Sự chồng chéo giữa Luật Doanh nghiệpvà Luật Đầu tư:
Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư là hai đạo luật luôn đi đôi với nhau để điều chỉnh tất cả các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp, như thành lập doanh nghiệp, tổ chức quản lý của doanh nghiệp, hoạt động đầu tư của doanh nghiệp... Tuy nhiên, chỉ chưa đầy một năm kể từ ngày hai luật này có hiệu lực (cùng ngày 01/07/2006), trong quá trình thực hiện, các doanh nghiệp gặp phải rất nhiều vướng mắc do một số quy định trong hai luật mâu thuẫn với nhau và chồng chéo lên nhau.
Phạm vi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp là việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp; còn phạm vi điều chỉnh của Luật Đầu tư là hoạt động đầu tư nhằm thực hiện mục đích kinh doanh. Phạm vi điều chỉnh của hai luật này về nguyên tắc hoàn toàn tách bạch nhau, nhưng khi đi vào chi tiết lại chồng chéo nhau. Liên quan đến vấn đề hoạt động của doanh nghiệp, lẽ ra Luật Đầu tư chỉ cần điều chỉnh việc cấp giấy chứng nhận đầu tư nhằm xác nhận những ưu đãi mà dự án được hưởng, nhưng trên thực tế, Luật Đầu tư lại điều chỉnh cả việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp bằng quy định: giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh . Như vậy, Luật Đầu tư đã điều chỉnh cả việc thành lập doanh nghiệp, lấn vào sân Luật Doanh nghiệp, gây nên những vướng mắc khó giải quyết. Rõ ràng, việc không tách bạch vấn đề thẩm quyền đăng ký kinh doanh của hai luật này đã gây ra khó khăn cho doanh nghiệp .
Những quy định chồng chéo trong nghị định 78/2007/NĐ- CP về đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT, BTO, BT:
Đa số các dự án đầu tư trực tiếp vào Việt Nam dưới hình thức hợp tác kinh doanh thông qua các loại hợp đồng như BOT, BTO, BT. Vì thế việc phát hiện và phân tích những hạn chế nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về lĩnh vực này cũng là một điều hết sức cần thiết nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả thu hút nguồn vốn FDI.
Nghị định 78/2007/NĐ- CP ra đời thay thế cho Nghị định 62/1998/NĐ- CP (Quy chế đầu tư dành cho Nhà đầu tư nước ngoài) và quy định chi tiết về hình thức đầu tư thông qua hợp đồng BOT, BTO, BT. Tuy nhiên chính trong nghị định này lại có những quy định chồng chéo khiến cho nhiều nhà đầu tư nước ngoài phải bối rối, lúng túng khi lựa chọn hình thức đầu tư này. Chẳng hạn liên quan đến việc thẩm tra hợp đồng BOT, tại khoản 3 điều 14 Nghị định 78/2007/NĐ- CP quy định hợp đồng BOT và các hợp đồng có liên quan được thẩm tra đồng thời với việc thẩm tra cấp GCNĐT theo quy định tại điều 17 Nghị định này. Thế nhưng điều 17 lại không quy định cụ thể thủ tục thẩm tra hợp đồng BOT mà chỉ quy định cụ thể thủ tục thẩm tra cấp GCNĐT. Từ đó sẽ đến xuất hiện mốt số vướng mắc như sau:
- Những yêu cầu cần thiết của hồ sơ thẩm tra hợp đồng BOT ( đồng thời thẩm tra cấp GCNĐT) thiếu đi một văn bản vô cùng quan trọng, đó là Quyết định lựa chọn Nhà đầu tư tham gia đàm phán trực tiếp hợp đồng căn cứ vào kết quả đấu thầu (Trường hợp đấu thầu rộng rãi) hoặc quyết định chỉ định Nhà đầu tư (trường hợp có điều kiện).
- Nghị định số 78 này vẫn chưa đặt ra một quy trình cấp GCNĐT để thực hiện dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng trong mối quan hệ với quy trình cấp GCNĐT trong Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp. Theo đó hồ sơ cấp GCNĐT cho dự án theo hình thức hợp đồng không có các loại giấy tờ, yêu cầu cần thiết như: Tư cách pháp lý, tài chính của Nhà đầu tư, đơn xin cấp GCNĐT,…
- Như vậy, quy định chồng chéo nối tiếp nhau tạo nên sự thiếu nhất quán và kém minh bạch của pháp luật đối với các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam .
2.1.3. Khó khăn trong việc thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Việt Nam hiện nay đã có Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp, tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt cơ bản giữa thủ tục thành lập công ty nước ngoài tại Việt Nam và công ty trong nước: Đối với doanh nghiệp Việt Nam, thủ tục thành lập tương đối đơn giản và thời hạn thành lập cũng tương đối nhanh, chỉ trong vòng 15 ngày làm việc, cơ quan xử lý và cấp giấy chứng nhận đầu tư sẽ là Phòng đăng ký kinh doanh thuộc Sở kế hoạch và đầu tư cấp tỉnh. Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thủ tục thành lập phức tạp hơn, nhà đầu tư phải chú ý vấn đề sau:
- Thứ nhất: Nhà đầu tư nước ngoài phải chú ý tới các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, Việt Nam cam kết mở cửa thị trường đối với các nhà đầu tư nước ngoài theo lộ trình. Do vậy, nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam, phải thỏa mãn những điều kiện trong cam kết WTO và những văn bản pháp luật của Việt Nam.
- Thứ hai: Về cơ quan cấp phép và thủ tục cấp phép. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thủ tục và quy trình thành lập phức tap hơn rất nhiều, quy trình thành lập sẽ được chia làm 2 trường hợp, trường hợp đăng ký đầu tư và trường hợp thẩm tra dự án đầu tư. Bên cạnh đó, nếu doanh nghiệp nằm trong khu công nghiệp, khu chế xuất, thủ tục đầu tư sẽ được Ban quản lý khu công nghiệp và khu chế xuất tiến hành và cấp giấy chứng nhận đầu tư cho doanh nghiệp.
Khi thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, nhà đầu tư có những vướng mắc sau:
- Vấn đề xác định chủ đầu tư:
Vẫn chưa có sự minh bạch trong nhận định thế nào là Nhà đầu tư trong nước và Nhà đầu tư nước ngoài.Việc này ảnh hưởng rất lớn đến các quy định pháp luật tương ứng khi áp dụng.Nếu được xem là Nhà đầu tư trong nước thì chỉ mất 5 ngày sẽ xin được giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; còn nếu là Nhà đầu tư nước ngoài phải mất tối thiểu 30 ngày.
- Xác định ngành nghề kinh doanh:
Có rất nhiều lĩnh vực kinh doanh ở nước ngoài nhưng chưa có tại Việt Nam. Trong khi theo quy định, Nhà đầu tư phải áp mã ngành kinh doanh theo hệ thống ngành nghề kinh doanh quốc gia hoặc CPC. Nếu không xác định được Mã để áp thì gần như không thể đăng ký.
- Vấn đề giải trình đáp ứng các điều kiện đầu tư:
Luật đầu tư quy định chỉ thẩm định ở cấp Bộ, song thực tế tại một số địa phương, dù Bộ đã chấp thuận nhưng khi về đến địa phương thì có thêm khâu hỏi ý kiến của các Sở và thường các Sở yêu cầu giải trình thêm. Việc này sẽ gây thêm khó khăn cho nhà đầu tư.
- Về vấn đề địa điểm thực hiện dự án đầu tư:
Thực tế hiện nay có rất nhiều tòa nhà khi xây dựng xong nhưng chưa hoàn tất thủ tục xin cấp GCN QSHCT. Khi Nhà đầu tư tiến hành thuê thường không biết việc này vì bên cho thuê cam kết sẽ được chấp nhận của Cơ quan Nhà nước hoặc sẽ hỗ trợ tối đa. Song thự tế DPI đòi hỏi quá nhiều giấy tờ mà gần như không thể đáp ứng. Từ đó dẫn đến tất cả HS hoàn chình, duy nhất có địa điểm trụ sở không thể đáp ứng và không được cấp phép.
- Về vấn đề tiến trình thực hiện góp vốn:
Có rất nhiều trường hợp do chậm tiến độ góp vốn vì lý do khách quan nhưng để được góp vốn sau khi phát hiện ra là quá hạn thì rất khó thực hiện. Sau đó, Sở kế hoạch và đầu tư buộc phải tiến hành thanh tra, phạt vi phạm rồi điều chỉnh GCN Đầu tư liên quan đến thời hạn góp vốn mới được chuyển vốn. Trong khi đó, UBND luôn kêu gọi nguồn vốn nước ngoài nhưng cách triển khai thì gần như ngăn chặn .
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐỂ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM
3.1. Giải pháp pháp lý
Để các biện pháp đầu tư thật sự có hiệu quả và đạt được các mục tiêu đề ra là thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, các biện pháp này cần có đối tượng rõ ràng, đơn giản và dễ hiểu đối với những người sử dụng (các doanh nghiệp) và nhà quản lí. Kết quả của việc khuyến khích cũng cần phải minh bạch và có thể dự liệu được.
- Về mặt thủ tục: cần phải tách giấy chứng nhận đầu tư khỏi giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh , theo đó tất cả các nhà đầu tư không phân biệt nguồn vốn khi bắt đầu đăng kí kinh doanh phải đăng kí thành lập doanh nghiệp để được cấp GCNĐKKD, trước hết xác lập tư cách và địa vị pháp lý của một doanh nghiệp, chủ thể kinh doanh.
- Về áp dụng các điều kiện: sẽ tích hợp tất cả các điều kiện theo danh mục ban hành kèm theo một Nghị định. Bao gồm: các cam kết hạn chế, mở cửa thị trường, tỉ lệ góp vốn và hình thức đầu tư của Việt Nam với WTO, BTA và các hiệp định song phương, đa phương khác chỉ áp dụng cho Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài; các lĩnh vực đầu tư có điều kiện (theo Điều 29 Luật đầu tư hiện nay như lĩnh vực tác động đến quốc phòng, an ninh quốc gia, tài chính, văn hóa thông tin, báo chí xuất bản, bất động sản, giáo dục,…) áp dụng cho cả doanh nghiệp trong nước và DNĐTNN các điều kiện khác phù hợp với lợi ích quốc gia trong từng thời kì. Từ đó các doanh nghiệp đã và sẽ đăng kí kinh doanh (có vốn đầu tư nước ngoài, hoặc lần đầu đầu tư vào Việt Nam) căn cứ vào mục đó tự xác định điều kiện có thể đáp ứng. cơ quan quản lí nhà nước đối chiếu, áp dụng các điều kiện đã xác định tương ứng với hình thức đăng kí hay thẩm tra đầu tư và hướng dẫn chi tiết tại các luật chuyên ngành để cấp GCNĐT cho những trường hợp đó. Các doanh nghiệp đã đăng kí và hiện không đáp ứng đủ điều kiện sẽ phải bổ sung, điều chỉnh trong thời hạn hợp lý. Như vậy sẽ chỉ cấp GCNĐT cho các doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực có điều kiện để xác định tính hợp pháp của hoạt động đầu tư.
- Về những quy định về thời hạn của một dự án đầu tư: Điều 52 Luật đầu tư 2005 quy định “Thời gian hoạt động của dự án có vốn đầu tư nước ngoài phù hợp với yêu cầu dự án và không quá năm mươi năm…”. Nhưng trong thực tế, có nơi những dự án liên quan tới thành lập công ty thương mại, hoạt động bán lẻ hay phân phối,… chỉ được cấp phép hoạt động trong thời hạn 20-30 năm tùy vào số vốn đầu tư. Như vậy, nếu đang tiến hành kinh doanh mà giấy phép hết hạn thì nhà đầu tư phải xin gia hạn, cần tính đến thời điểm xin gia hạn, những quy định pháp luật hiện hành đã có những thay đổi so với trước kia, làm quyền lợi của nhà đầu tư giảm đi. Một tình huống nữa là khi các địa phương ở từng nơi hành xử một cách cảm tính như vậy thì sẽ dẫn tới việc các nhà đầu tư bức xúc, cho rằng họ bị đối xử không công bằng khi các địa phương có cách hành xử khác nhau về việc cấp phép đầu tư. Tâm lý ái ngại sẽ phát sinh một cách không cần thiết, ảnh hưởng tới nguồn vốn đâu tư. Biện pháp khắc phục tình trạng này là nên ban hành những quy định quy định về những khung chuẩn: đối với những dự án đầu tư thế nào thì sẽ được cấp phép hoạt động trong thời hạn bao lâu một cách cụ thể,, rõ ràng trong đó đã lưu ý đến sự khác biệt về kinh tế -xã hội giữa các địa phương. Khi quy định như vậy, tuy không phải hoàn toàn nhưng những sự khác biệt nêu trên sẽ được giảm bớt và tạo tâm lý thoải mái cho nhà đầu tư.
- Về điều kiện thu hồi GCNĐT khi nhà đầu tư không triển khai hoặc dự án chậm tiến độ quá 12 tháng: trong quá trình thực hiện quy định này rất dễ bị vi phạm vì nó hầu như thiếu tính thực tế, gây khó khăn cho nhà đầu tư. Đối với các dự án sản xuất kinh doanh thì còn đỡ, còn đối với những dự án BĐS thì rất khó kiểm soát vì còn vướng vào thủ tục đền bù, giải tỏa rất khó khăn nhất là trong giai đoạn hiện nay khi Luật Đất đai 2013 đang chuẩn bị có hiệu lực, sự khác biệt giữa việc áp dụng luật cũ và luật mới; và xu hướng hiện nay thì các nhà đầu tư nước ngoài chuyển hướng sang đầu tư ở lĩnh vực BĐS và những dự án lớn đã được lên kế hoạch. Trong khi đó các văn bản pháp luật chưa đưa ra được khái niệm thế nào là không triển khai dự án? Thế nào là chậm triển khai dự án? Cùng với những trường hợp có thể xảy ra khi áp dụng thực tế. Vì vậy theo tôi cần ban hành những quy định mang tính thực tế hơn như vừa nêu ở trên, có như thế thì công tác quản lí sẽ dễ dàng hơn và đảm bảo tính công bằng hơn đối với nhà đầu tư.
- Bởi vì thuế thu nhập doanh nghiệp thay đổi từ 1/1/2009 và được điều chỉnh theo Luật Thu nhập doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 3/6/2008 và NĐ 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008. Theo đó, nhiều lĩnh vực và địa bàn đầu tư không còn được hưởng ưu đãi về thuế như Luật đầu tư quy định. Như vậy có sự mâu thuẫn giữa hai luật và nên sửa đổi những quy định tại chương V của LĐT. Cho rằng LĐT không cần có những quy định chi tiết về lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư như hiện tại nó đang điều chỉnh mà vấn đề này nên được quy định chi tiết trong Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thực hiện.
- Về quy định chuyển đổi loại hình doanh nghiệp: không nên làm khó nhà đầu tư bằng những quy định cứng nhắc và thiếu tính thực tiễn nhự trong luật hiện nay, mà nên ban hành những quy định có nội dung như: với điều kiện nào thì một DNTN có thể chuyển được thẳng sang CTCP mà không phải qua bước trung gian là giải thể hoặc thành lập CTTNHH trước và chỉ cần nhà đầu tư chứng minh được tại thời điểm họ muốn chuyển đổi đáp ứng được những điều kiện đó thì có thể chuyển đổi; đồng thời thủ tục chuyển đổi cũng nên nhẹ nhàng, gọn gàng.
- Về vấn đề tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài: DN có vốn đầu tư nước ngoài mà nhà đầu tư trong nước sở hữu từ 51% vốn điều lệ được áp dụng điều kiện đầu tư như nhà đầu tư trong nước tức là DN này sẽ được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi như nhà đầu tư trong nước, đầu tiên và rõ ràng nhất là không cần có dự án đầu tư. Trong khi đó, những DN mà không đạt được tỉ lệ này bị coi là nhà đầ tư nước ngoài và bị ràng buộc về hạn chế tiếp cận thị trường do những cam kết WTO. Quy định này thể hiện sự bảo hộ đối với nhà đầu tư trong nước trong khi chúng ta luôn khẳng định sự công bằng đối với các nhà đầu tư, không có sự phân biệt. Dùng tiêu chí tỉ lệ vốn góp để phân biệt nhà đầu tư trong nước và nước ngoài là không hợp lí. Thiết nghĩ, cần phải đưa ra những quy định nêu rõ thế nào là nhà đâ tư trong nước, thế nào là nhà đầu tư nước ngoài theo đúng tinh thần bàn tiếng anh chính thức của WTO.
Có thể nói, việc quản lý, giám sát các dự án, các DN thuộc mọi thành phần kinh tế là công việc phức tạp, đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao. Trong nhiều năm qua, việc tổ chức kiểm tra, giám sát dự án, DN luôn là đề tài được bàn tán nhiều. Vấn đề tối cần là làm thế nào để việc kiểm tra, giám sát đạt hiệu quả cao mà không trùng lắp giữa các ban, ngành; không gây phiền hà cho chủ dự án, chủ DN vì “tiền kiểm” đã không được gây phiền hà trong việc cấp giấy phép thì “hậu kiểm” càng không được cản trở quá trình sản xuất, kinh doanh. Theo quy định của LĐT 2005 thì việc “hậu kiểm” chủ yếu vẫn dựa vào các báo cáo định kì của các chủ dự án, chủ DN một cách thụ động. Tăng hậu kiểm, làm cho các hoạt động đầu tư ngày càng có chất lượng, vừa phục vụ tăng trưởng ổn định, vừa dành dụm các nguồn tài nguyên cho các thế hệ con cháu, có lẽ nên là một chủ đích lớn của Luật đầu tư. Công tác hậu kiểm không chỉ đơn thuần phục vụ cho việc quản lí nhà nước mà còn nhằm phục vụ dự án, phục vụ DN phát triển nên cần có những chế định mới, công nghệ mới, dựa vào những công cụ và phương tiện hiện đại, phù hợp với pháp luật Việt Nam và tập quán quốc tế.
3.2. Nhóm giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng
- Tiến hành tổng rà soát, điều chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc, trước hết là tuyến Bắc-Nam, hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc; nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt, trước hết là đường sắt cao tốc Bắc-Nam, đường sắt hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc, đường sắt nối các cụm cảng biển lớn, các mỏ khoáng sản lớn với hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt nội đô thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; sản xuất và sử dụng điện từ các loại năng lượng mới như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt trời; các dự án lĩnh vực bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin.
- Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép đầu tư dịch vụ cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần (logistic) để tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các cảng lớn của các khu vực kinh tế như hệ thống cảng Hiệp Phước-Thị Vải, Lạch Huyện…
- Xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết của ta với WTO đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu về văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn thông, hàng hải, hàng không.
3.3. Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực
- Tăng cường cộng tác giữa giáo dục đại học, cao đẳng kĩ thuât và doanh nghiệp trong đó, sinh viên dành phần lớn thời gian cho hoạt động thực hành với các mẫu là sản phẩm từ các doanh nghiệp FDI, dưới sự hướng dẫn của các chuyên gia nước ngoài; cho sinh viên thực tập dài hạn tại các doanh nghiệp FDI để tăng khả năng việc làm cho sinh viên và khả năng tuyển dụng nhân lực tốt cho doanh nghiệp.
- Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 55% vào năm 2015 và 70% vào năm 2020. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau. Khuyến khích các DN thành lập các trung tâm đào tạo nghề, các tập đoàn thành lập các trung tâm công nghệ cao để công nhân kĩ thuật có điều kiện theo học, tiếp thu các kỹ thuật tiên tiến của thế giới. Ngoài ra, khu công nghiệp, khu chế xuất là một trong những mục tiêu để thu hút nguồn vốn FDI vì vậy cần chú trọng phát triển nguồn nhân lực trong các khu này. Cần phải đào tạo các công nhân có trình độ chuyên ngành. Bên cạnh phát triển trình độ chuyên môn cần phải chú ý phát triển trình độ ngoại ngữ.
- Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Thực hiện các giải pháp nhằm đưa các quy định của Bộ luật Lao động 2012 vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ luật Lao động, bao gồm:
+ Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động.
+ Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.
- Về việc tăng cường đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý:
+ Thứ nhất, cần rà soát lại đội ngũ cán bộ đang làm việc tại các cơ quan liên quan trực tiếp tới FDI, từng bước hình thành đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ đầu tư quốc tế, am hiểu kinh tế thị trường và tập quán thông lệ quốc tế. Các chương trình đào tạo đặc biệt cần được xây dựng để trang bị cho người học không chỉ những kĩ năng và kiến thức về đầu tư và tài chính, các kĩ năng tính toán mà còn trang bị cho họ khả năng bao quát tình hình kinh tế vĩ mô, các về văn hóa, xã hội học, nhân khẩu học, marketing có tính đến yếu tố quốc tế vì FDI gắn với các TNCs đầu vào và đầu ra là các thị trường quốc tế.Trang bị cho đội ngũ này đầy đủ kiến thức về quản lý nhà nước và khả năng kết hợp giữa kiến thức về đầu tư với kiến thức quản lý. Đối với các cán bộ không đủ tiêu chuẩn vừa phải đào tạo lại (nếu còn trẻ), vừa phải mạnh dạn chuyển công tác đi cơ quan khác.
+ Thứ hai, cần chú trọng đào tạo thường xuyên cho đội ngũ cán bộ quản lý. Mở các khóa học đào tạo ban đầu, đào tạo dài hạn, và sau đó chú trọng mở các khóa đào tạo ngắn hạn vài ngày, một vài tuần nhằm bồi dưỡng nâng cao năng lực làm việc trong suốt quá trình. Phải có cơ chế chính sách tuyển dụng và sử dụng và đãi ngộ tương ứng với năng lực và hiệu quả công việc đã thực thi. Ngoài ra, cần xây dựng đội ngũ thanh tra có năng lực và chuyên môn trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ và tài chính để phục vụ tốt hơn nữa hoạt động quản lý đối với các dự án FDI sau cấp phép.
3.4. Một số giải pháp khác
Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính
Trước hết, cần sắp xếp bộ máy các cơ quan theo hướng tinh giảm gọn nhẹ, ít đầu mối: Các cơ quan quản lý FDI các cấp cần rà soát lại hệ thống phòng ban chức năng và đội ngũ cán bộ. Xóa bỏ, hợp nhất những phòng ban có chức năng tương đương hoặc có thể hợp nhất để tạo ra hệ thống quản lý đơn giản nhất, loại bỏ những qui định chồng chéo và tiết kiệm thời gian cho nhà đầu tư. Nâng cao năng lực bộ máy quản lý hành chính: đổi mới tư duy từ “ban phát” sang “phục vụ”. Cần có chế độ lương bổng và đãi ngộ chính đáng. Tuy nhiên cũng cần ban hành cơ chế thưởng phạt đích đáng đối với cán bộ thực thi công việc.
Tiếp đến, Nhà nước cần thực hiển rà soát tổng thể, bãi bỏ các loại giấy tờ trái với qui định của luật, những giấy phép không cần thiết (theo tinh thần của đề án 30), kèm theo việc sửa đổi bổ sung các qui định về những giấy phép còn lại. Đối với các thủ tục gia nhập thị trường, đặc biệt là các điều kiện kinh doanh, giấy phép kinh doanh, các bộ ngành cần tăng cường cơ chế phối hợp để đảm bảo rà soát , bãi bỏ thủ tục một cách hợp lý. Thực hiện minh bạch hóa đối với các thủ tục và qui trình đầu tư: Đẩy mạnh hơn nữa chính sách một cửa công khai qui trình thủ tục có liên quan đến toàn bộ quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Thủ tục hành chính liên quan đến quá trình đầu tư cần được công bố cụ thể, công khai và thực hiện một cách nhất quán.
Hướng tới phát triển hiệu quả hệ thống chính phủ điện tử nhằm giảm chi phí và tăng tính minh bạch trong hoạt động kinh tế xã hội. Nhân rộng mô hình quản lý theo tiêu chuẩn ISO 9001 trong các cơ quan làm việc trực tiếp với các doanh nghiệp FDI để các cơ quan này hoạt động hiệu quả hơn, chuyên nghiệp hơn ,phục vụ các nhà đầu tư hiệu tốt hơn.
Chính sách về thuế và ưu đãi tài chính
- Thực hiện tốt luật thuế VAT và thuế thu nhập công ty. Đây là hai đạo luật thuế trong giai đoạn đầu áp dụng để đưa hoạt động thu thuế đối với các dự án đầu tư nước ngoài đi vào ổn định.
- Tăng cường các biện pháp ưu đãi tài chính cho các nhà đầu tư thông qua hệ thống giá cả áp dụng đối với các nhà đầu tư nước ngoài vào các doanh nghiệp trong nước thống nhất như giá điện nước, giá cước vận tải, bưu điện, hàng không.
- Nâng cao hiệu lực và hiệu quả của các biện pháp ưu đãi tài chính như giải quyết nhanh vấn đề thuế cho các nhà đầu tư nước ngoài, việc chuyển lợi nhuận về nước thuận tiện, vấn đề góp vốn được dễ dàng đặc biệt là không nên hạn chế hoặc đưa ra qui định bắt được các nhà đầu tư nước ngoài phải góp vốn bằng tiền mặt khi họ cũng đang gặp những khó khăn cho tác động của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ.
- Hỗ trợ cho các dự án đã được cấp giấy phép đầu tư được hưởng những ưu đãi của các qui định mới về thuế, lợi tức, giá thuế đất mới, miễn giảm thuế doanh thu đối với những doanh nghiệp thực sự lỗ vốn.
- Hỗ trợ bằng ngoại tệ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang thực sự gặp khó khăn.
- Chủ động thu hút nhiều hơn nguồn vốn nước ngoài không nhất thiết phải ấn định tỷ lệ nguồn vốn, tranh thủ mọi nguồn vốn cho phát triển.
- Cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cổ phần hoá để tăng vốn phát triển sản xuất kinh doanh.
- Ban hành chính sách thu phí thống nhất để tránh tình trạng thu phí bất hợp lý và không quản lý được, tránh thu phí tuỳ tiện ở các địa phương.
Ngoài ra còn một số giải pháp sau:
- Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và các đối tác trọng điểm như các quốc gia thành viên EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản…
- Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước.
- Tăng cường phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương xử lý vấn đề môi trường, vấn đề đình công trái pháp luật của các doanh nghiệp FDI. Bộ Kế hoạch đầu tư cần lấy ý kiến của các bộ, ngành và địa phương nghiên cứu và ban hành một văn bản quy định về quy chế phối hợp giữa Trung ương và địa phương, và giữa các bộ ngành trong quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài. Cần tạo ra cơ chế giúp các Bộ, cơ quan có báo cáo nhanh, cập nhật thông tin hàng tháng về tình hình tiếp nhận, cấp Giấy chứng nhận đầu tư và vốn thực hiện của các dự án đầu tư nước ngoài thuộc phạm vi thẩm quyền của mình về Bộ Kế hoạch và Đầu tư một cách cập nhật nhất.
- Duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các Bộ, ngành với các nhà đầu tư, đặc biệt là Diễn đàn doanh nghiệp hàng năm để xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các dự án trong quá trình thực hiện chính sách và phát luật hiện hành, đảm bảo các dự án hoạt động đúng tiến độ và hiệu quả, nhằm tiếp tục củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, tạo hiệu ứng lan tỏa và tác động tích cực tới nhà đầu tư mới.
KẾT LUẬN
Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đang trở thành một bộ phận chủ yếu trong nền kinh tế thế giới và là nhân tố quan trọng hàng đầu của nhiều nước, nhằm hỗ trợ và phát huy lợi thế của mỗi quốc gia để phát triển. Nhu cầu đầu tư ngày càng cao trở nên bức thiết trong điều kiện quốc tế hóa đời sống kinh tế, của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ và phân công lao động ngày càng tăng. Đối với các nước đang phát triển như nước ta hiện nay đầu tư của nước ngoài là một trong những nhân tố chủ yếu cho sự tăng trưởng kinh tế và là một trong những chỉ số cơ bản đánh giá khả năng phát triển.
Bất cứ nơi nào, bất kì ngành nào cũng cần vốn đầu tư để phát triển, vì vậy cần phải có các giải pháp nhằm thu hút nhiều hơn vốn đầu tư nước ngoài nói chung và vốn FDI nói riêng sao cho hiệu quả. Trong bài tiểu luận của mình nhóm cũng đã đưa ra một số giải pháp đối với việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để đạt được hiệu quả cao hơn. Các nội dung đưa ra đều xuất phát từ góc độ lý luận kết hợp với phân tích thực tiễn. Và vấn đề đặt ra nữa là tiếp nhận vốn đã khó song sử dụng vốn để có được hiệu quả lại càng khó hơn và chỉ khi nào sử dụng có hiệu quả thì việc thu hút đầu tư mới có ý nghĩa thiết thực.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật đầu tư 2005
2. Luật doanh nghiệp 2005
3. Luận văn Một số giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay
4. Nguyễn Thúy Lê, Khóa luận tốt nghiệp Pháp luật về hoạt động đầu tư trực tiếp, thực trạng và giải pháp hoàn thiện (2009)
Đăng ký đầu tư tại văn phòng luật Hồ Chí Minh, với dội ngũ luật sư và nhân viên tư vấn chuyên nghiệp thì việc đó không còn khó nữa. Đến với văn phòng luật Nguyễn Trần và Cộng Sự bạn không cần phải lo, mọi việc chúng tôi sẽ khiến bạn hài lòng.
Trả lờiXóa